Rắn trong truyền thuyết Việt Nam
Ngoài những con rắn vẫn thường thấy, truyền thuyết về cội nguồn dân tộc Việt Nam còn nhắc tới loài rắn khổng lồ là thuồng luồng, dài tới năm bảy chục thước, sống nơi biển lớn, hồ rộng, sông sâu. Truyền thuyết cội nguồn dân tộc Việt Nam cũng nhắc đến chúng ta vốn thuộc loài Giao Chỉ. Danh từ kép này có nhiều nghĩa: Ngón chân cái tách ra, lúc đứng xếp chân gần nhau thì thấy hai ngón chân cái giao đầu với nhau. Lại thêm một nghĩa nữa là: Bờ nuớc có thuồng luồng, cá sấu... thời tiền sử sinh sống. Đó là hai ý nghĩa chính, còn nhiều cách giải thích khác nữa không thể nói hết được.
Theo truyền thuyết thì ngày xưa, giao long và thuồng luồng tranh nhau sống khắp ao hồ, sông suối vùng duyên hải Nam Hoa và Bắc Việt. Do đó, Hàn Dũ đời Đường (768-823) và Hàn Thuyên đời Trần Thái Tông (1225-1257) đã được lệnh nhà vua làm bài văn tế cá sấu, để đuổi cá sấu đang nhiễu hại dân chài lưới ra khỏi sông Phú Lương, tức sông Hồng ngày nay. Theo nhà văn Roger Caillois, con rồng phát xuất từ con giao long mà ông dịch là Alligator, một giống bò sát (reptile) có nhiều liên hệ với nước, mây, mưa, gió. Ắt hẳn con giao long là vật tổ của người Giao Chỉ, một sắc dân sống miền duyên hải, chuyên sống bằng nghề chài lưới và có tục lệ xăm mình, vẽ hình rồng rắn trên người, khiến cho giống thuồng luồng, cá sấu phải nể nang mà tránh né hoặc được xem như là đồng loại để đừng giết hại lẫn nhau.
Tục lệ xăm mình này đã có từ ngàn xưa vì sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đời Hán đã từng ghi: “Tiễn phát, văn thân, thác ti, tả nhậm” (cắt tóc ngắn, vẽ mình, vòng tay, cài nút áo phía trái), ấy là bốn đặc tính của dân Việt Giao Chỉ. Tục lệ đã chấm dứt tại đời vua Trần Anh Tông (1293-1314). Ông cũng là người đầu tiên dám cãi lệnh vua cha, nhất định không chịu xăm mình. Đó là một ông vua tiến bộ, dám quên gốc chài lưới của tổ tiên để mạnh dạn tiến vào thời kỳ nông nghiệp phồn thịnh. Hơn nữa, việc cống hiến ngọc trai, san hô cho vua Tàu thời điểm này không còn ràng buộc chặt chẽ như xưa và từ đó dân chài của ta không còn phải lặn xuống biển sâu để mò trai kiếm ngọc.
Như đã nói ở trên, các loài rồng rắn, thuồng luồng, cá sấu có nhiều điểm tương đồng, mà cũng có nhiều điểm dị biệt: Rồng có bốn chân, không có cánh mà vẫn bay được lên tận mây xanh; thuồng luồng không chân và dài như con chình khổng lồ, có thể lật thuyền như chơi; cá sấu da dày, răng như lưỡi cưa... trông thấy mà kinh! Hầu hết rồng rắn trong truyền thuyết đều dị hình, dị tướng, mang nặng tính chất kỳ bí, do óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú của con người mà hình thành.
Rắn trong lịch sử Việt Nam
Trong lịch sử Việt Nam có biết bao nhiêu là chuyện rắn. Tuy nhiên, một trong những câu chuyện liên quan đến việc rắn trả thù mà Thị Lộ là nhân vật được người đương thời cho là hiện thân của loài rắn độc. Câu chuyện được tóm lược như sau:
Năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông (con vua Lê Lợi) đi tuần du phương đông, duyệt võ ở Chí Linh. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ đã về trí sĩ tại Côn Sơn, bèn ra nghênh tiếp xa giá nhà vua. Lê Thái Tông lúc đến viếng chùa Côn Sơn, là nơi có ẩn am của Nguyễn Trãi, nhìn thấy tỳ thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ nhan sắc lộng lẫy, lại có biệt tài về văn chương, bèn phong cho chức Lễ Nghi Học Sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh nhà vua. Đến khi Đông tuần, xa giá về tới Trại Vải (Lệ Chi Viên), thuộc xã Đại Lãi, huyện Gia Định, nay là Gia Bình, nhà vua nhuốm bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Thị Lộ hầu hạ, thang thuốc suốt đêm, rồi nhà vua băng hà. Các quan hốt hoảng, vội vã và bí mật phụng giá về Kinh, nửa đêm vào cung mới làm lễ phát tang.
Sau cái chết bất ngờ của nhà vua, tất cả triều thần đều buộc tội Thị Lộ đã âm mưu giết vua, liền đem nàng ra giết chết. Có sách nói rằng Thị Lộ đã bỏ thuốc độc vào chén cho vua uống. Có sách nói vua bị cắn lưỡi mà chết. Riêng phần Nguyễn Trãi, ông chỉ nói rằng: “Nếu có tội thì cứ chiếu pháp luật mà nghiêm trị”. Thảm trạng này xảy ra đúng lúc trong triều có nhiều võ quan theo phe Lê Sát, sinh lòng đố kỵ vì thấy ngày trước Nguyễn Trãi được Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) trọng dụng, đem lòng oán ghét, nhân cơ hội này, liền nghi Nguyễn Trãi là chủ mưu sát đế. Tiếp đó, quan Thừa Chỉ Nhập Nội Hành Khiển Đại thần Nguyễn Trãi đã bị kết án tử và cả ba họ bị tru di.
Truyền thuyết cho rằng lúc lập vườn tại Côn Sơn, lính hầu của Nguyễn Trãi đã vô tình giết hại một ổ rắn gồm mấy mẹ con. Sau đó rắn mẹ tái sinh, bò lên trần nhà nhìn Nguyễn Trãi đọc sách. Rắn nhỏ xuống một giọt máu đào, xuyên thấm qua ba tờ giấy, nhằm ám chỉ là ba họ. Về sau, cũng con rắn đó đã hiện thân nơi Thị Lộ làm ả bán chiếu gom ở Tây Hồ, gặp Nguyễn Trãi. Sau đó thì Thị Lộ đã trở thành tỳ thiếp của Nguyễn Trãi, nhập được vào gia đình ông để âm mưu phục thù, trả nợ máu ngày xưa là mấy mẹ con đã bị giết oan nơi bụi rậm.
Cái án oan này mãi đến 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông mới xét lại. Đó là vụ án lịch sử Lệ Chi Viên. Nhà vua thấy có nhiều điều hàm hồ, oan ức cho một đại công thần khai quốc, liền truyền hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức cho Nguyễn Trãi, con cháu ông được tìm kiếm và đưa ra làm quan, lại cấp tư điền để lo việc tế tự hàng năm.
HOÀNG NGÂN (Sưu tầm)