Năm 2011, mặc dù Chính phủ đã phải thực hiện các chính sách kiềm chế triệt để nhưng lạm phát vẫn ở mức 18,2%, một con số cao nhất từ trước đến nay. Trong năm 2012, với mục tiêu đưa lạm phát xuống dưới 2 con số (dưới 10%), Chính phủ sẽ tiếp tục kế thừa và thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát trước đó, đồng thời cải cách, đặt nền móng để tăng cường hiệu quả nền kinh tế, nhằm chữa trị tận gốc căn bệnh lạm phát để ổn định vĩ mô. Dưới góc nhìn của Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Chủ nhiệm chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright, phóng viên Báo Bình Dương đã cùng nhìn lại những diễn biến của lạm phát trong năm qua và những giải pháp sẽ thực hiện để kiềm chế lạm phát trong năm 2012...
“Căn bệnh” lạm phát năm 2011
Theo ông Vũ Thành Tự Anh, lạm phát năm 2011 có 2 nguyên nhân chính. Một là tăng trưởng cung tiền, đó là hệ quả của chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian dài, từ năm 2007, đặc biệt là trong chương trình chống suy giảm kinh tế. Dư chấn của tăng trưởng tín dụng đã làm tăng sức ép lên mặt bằng giá, đẩy lên cao và dẫn đến lạm phát. Tuy nhiên, nguyên nhân thứ 2 quan trọng hơn, đó là chi phí đẩy, các chi phí cơ bản của nền kinh tế trở lên rất cao ngay từ đầu năm. Tháng 2 đã có sự điều chỉnh về tỷ giá trong khi đó nền kinh tế còn phải nhập khẩu rất nhiều, nên mỗi một lần điều chỉnh tỷ giá, đồng thời cũng làm cho mặt bằng giá đẩy lên cao. Bên cạnh đó, Chính phủ thực hiện điều chỉnh giá xăng, dầu, điện, tiền lương lên cao... đã có tác động đến mọi khía cạnh khác nhau của đời sống kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất - kinh doanh. Như vậy, nguyên nhân của lạm phát cao trong năm 2011 vừa do tác động từ chính sách tiền tệ, vừa do chi phí đẩy tăng cao.
Lạm phát năm 2011 đã khiến người dân phải thắt lưng buộc bụng khi chi tiêu. Trong ảnh: Mua sắm hàng hóa tại Siêu thị Vinatex Bình Dương
Trước tình hình này, Chính phủ đã phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, đó là một giải pháp đã mang lại thành công. Trong kế hoạch tăng cung tiền năm 2011 là từ 16 -20% nhưng kết thúc năm 2011, cung tiền chỉ tăng từ 10 - 12%. Rõ ràng, việc giảm cung tiền cũng như tăng trưởng tín dụng đã giúp cho chỉ số lạm phát giảm rất nhiều trong những tháng cuối năm qua. Tuy nhiên, việc làm thế nào để ổn định chi phí đầu vào cho hoạt động sản xuất - kinh doanh mới là một giải pháp cấp bách. Về tỷ giá, Chính phủ đã duy trì được sự ổn định trong suốt 10 tháng của năm 2011. Bên cạnh đó, một số giá cơ bản khác cũng được kiềm giữ, tất nhiên sự kiềm giá không thể tồn tại mãi nếu như giá cả không ổn định tự nhiên. Giá điện, giá xăng dầu, giá lao động rất khó có thể kiềm xuống được, mặc dù lạm phát đang ở mức cao bởi nếu cứ kiềm giá, sẽ tạo ra những méo mó khác cho nền kinh tế. Mặc dù vậy, muốn kiềm chế lạm phát thành công ở một con số chấp nhận được, vẫn phải chú trọng giữ ổn định giá cả đầu vào cho sản xuất - kinh doanh.
Hậu quả của “căn bệnh” lạm phát năm 2011 đã tác động lớn đến đời sống xã hội, đồng tiền Việt bị giảm sút niềm tin. Theo Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, nếu so sánh tỷ giá để thấy giá trị đồng tiền, hiện có nhiều tỷ giá khác nhau, tỷ giá chính thức của NHNN, tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá thị trường chợ đen không có sự chênh lệch lắm. Tuy nhiên, nhìn vào giao dịch trên thị trường, rõ ràng có sự điều chỉnh lớn, do lạm phát tăng cao và để có khoản lãi suất thực dương thì buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất lên, điều đó làm giá trị đồng tiền Việt bị ảnh hưởng. “Người giữ tiền sẽ tính toán để mua vàng, USD hơn là giữ tiền đồng nhằm bảo tồn giá trị. Như vậy, lạm phát sẽ làm niềm tin của người dân vào tiền đồng giảm đi. Điều này thể hiện rất rõ ngay từ năm 2009-2010, khi mà khoản sai số trong cán cân thanh toán của nền kinh tế lên tới 11 - 12 tỷ USD do người dân chuyển giữ tiền đồng sang giữ USD. Chính vì thế, khi mà các thống kê vĩ mô chưa làm cho người dân yên tâm thì họ chuyển sang tích trữ USD hay vàng cũng là điều dễ hiểu. Chính vì thế, Chính phủ phải thực hiện triệt để các giải pháp để ổn định vĩ mô từ đầu năm 2011...”, ông Anh cho biết.
Trên thực tế, trong năm 2011, nhiều chính sách để tạo niềm tin cho đồng tiền Việt đã được thực hiện. Tuy nhiên, theo chuyên gia này, niềm tin muốn tạo dựng thì phải có cơ sở, ở đây là tốc độ lạm phát phải chậm lại. Trên thực tế thì thời gian qua, các giải pháp mà Chính phủ đưa ra đã đạt được điều này. Rõ ràng, đây sẽ là cơ sở để củng cố niềm tin của người dân vào đồng tiền Việt. Tuy nhiên, nếu nhìn lạm phát theo năm, thì ở mức trên 18% là quá cao. Do đó, niềm tin ban đầu vẫn chưa vững chắc vì chưa được khẳng định. Vì vậy, các chính sách tiếp theo của Nhà nước là phải nhằm củng cố niềm tin. Tuy vậy, để chính sách đi theo đúng hướng cũng không phải dễ dàng vì có những sức ép vô cùng lớn. Đơn cử như vấn đề lãi suất hiện nay đang ở mức cao, doanh nghiệp rất khó khăn vì thiếu vốn và sức ép từ giảm lãi suất là không nhỏ. Nếu Chính phủ cố gắng giảm lãi suất trong khi ổn định vĩ mô, cụ thể là lạm phát chưa kiềm chế được, điều này sẽ là sự “nới lỏng” tiền tệ quá sớm. Thêm vào đó, sự căng thẳng về thanh khoản trong hệ thống ngân hàng cũng làm cho việc giảm lãi suất nếu có, phải rất thận trọng; nợ xấu đã không chỉ diễn ra giữa doanh nghiệp sản xuất với ngân hàng mà đã có nợ xấu giữa các ngân hàng với nhau... Do đó, trong thời gian tới, chính sách tiền tệ của Nhà nước sẽ phải chịu một phép thử rất lớn và chắc chắn rằng, việc đưa ra quyết định giảm lãi suất sẽ chỉ xảy ra khi lạm phát được kiềm chế.
Cải cách để dứt “bệnh”
Nhìn nhận về các biện pháp kiềm chế nhằm đưa lạm phát xuống dưới 2 con số trong năm 2012, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh cho rằng, trong ngắn hạn, vẫn phải tiếp tục thực hiện chính sách hạn chế tăng trưởng tín dụng. Vì, nếu tăng trưởng tín dụng trong năm 2012 ở mức dưới 15%, sẽ là một cơ sở tốt để phân bổ tín dụng cho một nền kinh tế tăng trưởng ở mức 6%. Tiếp đó là giảm bớt và tăng cường hiệu quả của khu vực đầu tư công vì đầu tư công vẫn đang chiếm một tỷ trọng rất lớn, 40 - 45% tổng đầu tư xã hội và sự kém hiệu quả của đầu tư doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua, có thể sẽ gây ra một tỷ lệ lạm phát lớn. Việc phân bổ vốn cho nền kinh tế cũng phải điều chỉnh lại cho có hiệu quả. Việc giữ trần tăng trưởng tín dụng chỉ là cho cái “bánh tín dụng” không vượt qua một kích thước nào đó để khỏi gây quá tải nhưng điều quan trọng là việc phân phối những “miếng bánh” cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Nếu bảo đảm phân bổ dư nợ tín dụng, cho đồng vốn đi đến đúng được địa chỉ cần đến, sẽ không dẫn đến lạm phát vì khi đó vốn sẽ là tăng thêm các giá trị gia tăng, không còn tình trạng nhiều tiền và ít hàng.
Cũng theo ông Anh, về trung và dài hạn, vấn đề của nền kinh tế Việt Nam là làm sao để tăng cường hiệu quả, bao gồm hiệu quả sử dụng nguồn lực, hiệu quả điều hành. Năm 2012, Chính phủ bắt đầu thực hiện các chính sách cải cách nền kinh tế là nhắm vào mục tiêu này, đó là cải cách hệ thống ngân hàng, đầu tư công và doanh nghiệp Nhà nước. Trong quá trình thực hiện, cần phải có quyết tâm chính trị cao và một sự kiên định lớn thì mới có thể thành công, từ đó mới tăng cường tính hiệu quả cho nền kinh tế. Khi đó, lạm phát mới được giải quyết tận gốc rễ.
THÀNH SƠN