Tổng phương tiện thanh toán tăng cao ở mức 2 con số, nhưng tăng trưởng tín dụng hiện vẫn đang ở mức thấp, với 2,35% tính đến hết tháng 9. Kỳ vọng vào mức tăng trưởng tín dụng cả năm khoảng từ 8 - 10% là khó đạt! Trong khi tín dụng tăng trưởng thấp, các ngân hàng (NH) vẫn tích cực huy động vốn, do vậy câu hỏi được đặt ra là dòng tiền huy động từ các NH đang “chảy” về đâu? Trao đổi với PV. Báo Bình Dương tại Diễn đàn CFO (giám đốc tài chính) diễn ra mới đây tại TP.HCM, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành, giảng viên chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, cho biết:
Tăng trưởng tín dụng thấp hơn rất nhiều tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán đã manh nha từ năm ngoái nhưng năm nay mới thể hiện rõ. Tổng phương tiện thanh toán hiện tăng ở mức trên 2 con số, nhưng tín dụng chỉ tăng gần 2,4%. Kinh nghiệm từ quốc tế cho thấy, điều này chỉ xảy ra khi nền kinh tế bước vào giai đoạn thoái nợ, tức là người đi vay tìm cách trả nợ, giảm nợ dẫn đến tín dụng không tăng trưởng. Tuy nhiên, ở Việt Nam tình hình lại khác bởi dòng vốn huy động vào các NH vẫn tăng, trong khi tín dụng tăng rất chậm.
Vậy dòng tiền huy động chảy đi đâu? Nhìn vào cân đối tài chính của DN và bảng cân đối kế toán của các NH sẽ thấy khá rõ. Đối với các NH, dòng tiền huy động được tập trung vào các hạng mục tài sản khác thông qua sự tăng lên nhanh chóng của các khoản này, trong khi tín dụng cho khách hàng tăng rất chậm. Các tài sản khác của NH bao gồm các khoản phải thu, các hạng mục, khoản cho vay đã được tái cơ cấu, chuyển cho các công ty con, công ty quản lý tài sản. Hay nói cách khác, rất nhiều khoản tái cấu trúc, trong đó có những khoản nợ xấu của các NH hiện nay được thể hiện trong mục tài sản khác. Nói thẳng ra là dòng tiền huy động được dùng để đảo nợ.
Một hạng mục khác trong bảng cân đối tài sản của các NH cũng tăng là trái phiếu Chính phủ. Điều đó cho thấy, các NH có thanh khoản tốt nhưng không cho vay vì sợ rủi ro nên chuyển sang mua trái phiếu Chính phủ. Đây là những lý do giải thích tại sao tiền huy động tăng nhanh hơn rất nhiều lần so với tăng trưởng dư nợ tại các NH. Ở khía cạnh DN, những DN có tiềm lực tài chính tốt, doanh số ổn định, các NH có thể cho vay thì họ lại muốn trả bớt nợ. Những DN này muốn củng cố thêm bảng cân đối kế toán vì kỳ vọng vào nền kinh tế với họ chưa lạc quan. Chính vì thế, những DN này không muốn đi vay để đẩy mạnh đầu tư và nếu có tiền, họ sẽ tính toán để trả bớt nợ. Còn nhóm DN đang khó khăn, nợ nần cao, muốn vay tiếp thì bị các NH từ chối. Như vậy, các NH không cho vay được cả với DN tốt lẫn DN yếu, dẫn đến tín dụng không thể tăng trưởng.
Tín dụng tăng thấp nhưng các NH vẫn tăng huy động là do có sự khác biệt giữa các con số kế toán và con số tài chính. Mặc dù NH không cho vay mới được nhưng áp lực giải quyết nợ xấu, thanh khoản nên các NH vẫn phải tăng huy động vốn để có tiền mặt. Vì muốn đảo nợ, tái cơ cấu, NH vẫn cần tiền mặt. Với các NH có nhu cầu mua trái phiếu Chính phủ, muốn mua, tất nhiên họ phải huy động thêm vốn.
- THÀNH SƠN (ghi)