Bác sĩ Hồ Hoàng Vân, Phó Chi cục trưởng Chi cục dân số - kế hoạch hóa gia đình tỉnh: Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng…
Theo dõi Báo Bình Dương trên
(BDO) Hôm nay (23-12), Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tỉnh tổ chức hội nghị kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống ngành DS Việt Nam (26.12.1961 - 26.12.2021) và tổng kết công tác DS-KHHGĐ giai đoạn 2016-2020. Nhân dịp này, phóng viên Báo Bình Dương đã có cuộc trao đổi với bác sĩ Hồ Hoàng Vân, Phó Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh để hiểu hơn những kết quả đã đạt được trong công tác DS của tỉnh thời gian qua.
Công tác giáo dục sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên luôn được ngành dân số tỉnh chú trọng thực hiện. Trong ảnh: Học sinh trường THCS Phú Mỹ, TP.Thủ Dầu Một tham gia sinh hoạt về chủ đề sức khỏe vị thành niên
- Thực hiện nhiệm vụ DS qua các giai đoạn, đến nay, cơ cấu và chất lượng DS trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển biến như thế nào, thưa bác sĩ?
- Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của các ban ngành, đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân trên địa bàn tỉnh, sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII và các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác DS-KHHGĐ của tỉnh đã đạt được kết quả quan trọng. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, số dân trên địa bàn tỉnh là 685.284 người. DS tỉnh tăng lên 1.155.000 người vào năm 2010 và năm 2020 là 2.580.550 người. Tỷ suất sinh thô giảm từ 33,3‰ năm 1989 xuống còn 15,4‰ vào năm 2010 và đến năm 2020 là 10,99‰. Tổng tỷ suất sinh giảm từ 4,5 con vào năm 1991 xuống còn 1,7 con vào năm 2010 và năm 2020 là 1,63 con. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm từ 45% năm 1991 xuống còn 4,9% vào năm 2010 và 2,6% năm 2020. Tỷ lệ các cặp vợ chồng thực hiện các biện pháp tránh thai tăng từ 34,32% năm 1991 lên 73,80% năm 2010 và năm 2020 là 67,3%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 2,58% năm 1991 xuống còn 1,59% năm 2010 và năm 2020 là 1,51%.
Bình Dương là một trong những tỉnh có mức sinh thấp so với cả nước và đã đạt mức sinh thay thế từ năm 2003, sớm hơn 10 năm so với mục tiêu nghị quyết đề ra và tiếp tục duy trì cho đến nay. Cơ cấu DS của tỉnh trong thời gian qua có sự chuyển dịch tích cực. DS trong độ tuổi lao động ngày càng tăng, tỷ trọng DS từ 15 - 64 tuổi tăng từ 66,4% năm 1999 lên 77,1 % vào năm 2019. Đây là cơ hội tận dụng cơ cấu DS vàng để phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, cùng với chuyển dịch về cơ cấu DS, chỉ số già hóa DS của tỉnh ngày càng tăng, từ 25,4% năm 1999 lên 27,6 % vào năm 2019.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về DS-KHHGĐ của các cấp, các ngành và toàn dân có nhiều chuyển biến. Mỗi cặp vợ chồng có 2 con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội. Các hoạt động nâng cao chất lượng DS từng bước được triển khai thực hiện và đạt hiệu quả.
- Thưa bác sĩ, thời gian qua, Bình Dương đã có những hoạt động cụ thể gì và đạt được kết quả như thế nào trong việc chuyển trọng tâm chính sách DS từ KHHGĐ sang DS và phát triển?
- Hiện tại, Bình Dương thuộc nhóm 21 tỉnh cómức sinh thấp. Do đó, trong Kế hoạch 4651/ KH-UBND ngày 22-9-2020 của UBND tỉnh về kế hoạch hành động giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030 thực hiện chiến lược dân số Việt Nam, tỉnh tiếp tục đề ra mục tiêu nâng tổng tỷ suất sinh lên 1,8 con/phụ nữ vào năm 2025 và 2 con/phụ nữ vào năm 2030. Để thực hiện đạt mục tiêu trên, Sở Y tế tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch điều chỉnh mức sinh với các giải pháp, như: Truyền thông chuyển đổi hành vi; điều chỉnh, mở rộng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ; mở rộng tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản, KHHGĐ và các dịch vụ liên quan…
Bên cạnh các chính sách về điều chỉnh mức sinh, duy trì vững chắc mức sinh thay thế, tỉnh cũng chú trọng thực hiện các đề án nâng cao chất lượng DS. Từ năm 2011, tỉnh đã triển khai đề án sàng lọc trước sinh, sơ sinh, đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh trên 9/9 huyện, thị, thành phố. Kết quả, chỉ tính trong giai đoạn 2016-2020, trên địa bàn tỉnh có 96.568 trẻ sơ sinh được xét nghiệm sàng lọc sơ sinh và 66.485 bà mẹ được khám sàng lọc trước sinh. Ước thực hiện năm 2021, số bà mẹ được sàng lọc trước sinh là 32.645 bà mẹ, số trẻ sinh ra được sàng lọc sơ sinh là 31.781 trẻ.
Đối với chỉ tiêu khống chế tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh, từ năm 2016-2020, tỉnh luôn duy trì tỷ số giới tính khi sinh ở mức bình thường. Ước thực hiện năm 2021 là 104,1 bé trai/100 bé gái sinh ra sống (thực hiện vượt mục tiêu chung của chương trình là đến năm 2020 không quá 115 bé trai/100 bé gái sinh ra sống).
Công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thời gian qua cũng được chú trọng. Năm 2020, tỷ lệ người cao tuổi được chăm sóc đạt 73,2%, ước thực hiện năm 2021 là 76,8%...
- Để “DS là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và hướng tới mục tiêu “Vì một Việt Nam phát triển bền vững”, trong thời gian tới, ngành DS Bình Dương sẽ tiếp tục quan tâm đẩy mạnh những hoạt động liên quan nào, thưa bác sĩ?
- Ngành sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu, rộng các nội dung Chương trình hành động số 78-CTr/TU ngày 11-5-2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/ TW ngày 25-10-2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác DS trong tình hình mới nhằm tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội về việc chuyển hướng chính sách DS từ tập trung vào KHHGĐ sang giải quyết toàn diện các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố và nâng cao chất lượng DS. Đặc biệt, ngành xác định nội dung trọng tâm công tác tuyên truyền, là: Chuyển hướng chính sách DS từ tập trung vận động giảm mức sinh trong giai đoạn trước sang mục tiêu khuyến khích nâng mức sinh nhằm đạt mức sinh thay thế và duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi toàn tỉnh trong giai đoạn hiện tại.
CHẤT LƯỢNG DS CỦA TỈNH ĐÃ ĐƯỢC CẢI THIỆN VỀ NHIỀU MẶT, TUỔI THỌ TRUNG BÌNH NGƯỜI DÂN ĐẠT 75,4 TUỔI, TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM, TỶ LỆ TỬ VONG BÀ MẸ, TỬ VONG TRẺ EM GIẢM MẠNH, DS CÓ SỰ PHÂN BỐ HỢP LÝ HƠN. |
Bên cạnh đó, ngành sẽ tập trung xây dựng hệ thống thông điệp truyền thông, nội dung tuyên truyền, vận động phù hợp với vùng có mức sinh thấp. Phân nhóm đối tượng kết hợp xây dựng nội dung tuyên truyền phù hợp, như: Tập trung tuyên truyền các cặp vợ chồng về lợi ích của việc sinh đủ 2 con, các yếu tố bất lợi của việc kết hôn và sinh con quá muộn, sinh ít con đối với phát triển kinh tế - xã hội, đối với gia đình và chăm sóc cha, mẹ khi về già; tuyên truyền nam, nữ thanh niên chưa kết hôn về nội dung không kết hôn muộn, không sinh con muộn, mỗi cặp vợ chồng sinh đủ 2 con và nuôi dạy con tốt…
Ngành đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động với các hình thức đa dạng, phong phú, sinh động và thuyết phục; nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông qua các hình thức: Tận dụng tối đa các phương tiện thông tin đại chúng, chú trọng việc sử dụng các phương tiện truyền thông đa phương tiện, internet và mạng xã hội; sử dụng hợp lý các loại hình văn hóa, văn nghệ, giải trí trong truyền thông; phát huy vai trò của những người có ảnh hưởng với công chúng, gia đình và dòng họ như những người nổi tiếng trong các lĩnh vực chính trị, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, trưởng ấp, trưởng khu phố... Đặc biệt là ngành đẩy mạnh các hoạt động truyền thông trực tiếp, nhất là hoạt động truyền thông tại nhà, tại cộng đồng thông qua đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên, y tế cơ sở.
Ngành cũng sẽ thực hiện đổi mới toàn diện nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục về DS, sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường phù hợp với từng cấp học, lứa tuổi trong hệ thống giáo dục; bảo đảm trang bị cho người học các kiến thức, kỹ năng cơ bản, có hệ thống về cấu tạo, cơ chế hoạt động của các cơ quan sinh sản ở người, chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng tránh mang thai ngoài ý muốn, vô sinh và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, định hình giá trị mỗi gia đình nên có 2 con vì lợi ích gia đình và tương lai bền vững của đất nước…
- Xin cám ơn bác sĩ!
CẨM LÝ (thực hiện)