Anh hùng lao động Lê Văn Khoa: Người “thuyền trưởng” bản lĩnh
Theo dõi Báo Bình Dương trên
Trên hành trình đi tới của mình, Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng đã vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn, thử thách để làm nên những điều kỳ diệu. Thành quả đó là nhờ sự lãnh đạo của Đảng bộ công ty cùng đội ngũ lãnh đạo qua các thời kỳ, trong đó không thể không nhắc đến những đóng góp không biết mệt mỏi của Anh hùng Lao động Lê Văn Khoa (Năm Khoa), nguyên Giám đốc Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng.
Những quyết định táo bạo
Năm 1981, ông Khoa chuyển ngành từ trường Sĩ quan Lục quân 2 về công tác tại Công ty Cao su Dầu Tiếng. Trải qua những chức vụ và công việc khác nhau trước khi ra Hà Nội học trường Nguyễn Ái Quốc. Sau khi hoàn thành khóa học, ông trở về công ty làm phó giám đốc thường trực phụ trách nông nghiệp. Cũng thời gian này ông Năm Khoa bắt đầu để lại những dấu ấn trong hành trình đưa “con tàu” công ty tiến lên phía trước.
AHLĐ Lê Văn Khoa trong một lần mở cạo mủ cao su ở Nông trường cao su Thanh An
Là con người của công việc và hành động, những năm làm phó giám đốc rồi sau này là giám đốc công ty, ông Năm Khoa đã đưa ra những quyết định “không giống ai” và tất nhiên cũng không tránh khỏi sự phản đối có khi rất quyết liệt. Ngày đó, việc diệt cỏ tranh trong lô cao su là vô cùng vất vả, có thể nói trở thành nỗi ám ảnh với những người công nhân trồng mới. Cỏ tranh sau khi được cày xới, phơi nắng phơi sương, gặp mưa lại phát triển mạnh. Nhưng nếu không làm thì đến mùa khô cỏ cháy thì cao su bị ảnh hưởng nặng. Thấy mấy tấn thuốc diệt le để chất đống trong kho không sử dụng, ông Năm Khoa nghĩ sao không thử dùng thuốc này phun lên cỏ tranh? Ban đầu mọi người cũng nghi ngờ, nhưng khi áp dụng thử vào nông trường Trần Văn Lưu thì sáng kiến diệt cỏ tranh của ông phó giám đốc đã thành công hơn mong đợi. Từ đó đến bây giờ việc diệt cỏ tranh không còn là nỗi ám ảnh với lãnh đạo và công nhân cao su nữa.Xuất thân từ môi trường quân ngũ nên tính ông rất nghiêm và kỷ luật chặt chẽ. Khi làm phó giám đốc, ông chủ trương sắp xếp lại vườn cây và công tác vệ sinh được quan tâm. Từ chén hứng mủ đến xe chở mủ tất cả phải được vệ sinh sạch sẽ chu đáo. Nhiều người đã quen nếp cũ nên khi thực hiện chủ trương mới, có không ít người phản đối. “Muốn sản phẩm có chất lượng thì phải làm tốt từ những khâu đầu tiên. Nếu dùng gạo mốc thì làm sao nấu được cơm ngon...”, ông Năm Khoa quan niệm vậy và quyết định phải thực hiện cho bằng được. Ngày đó ông cũng rất cương quyết về vấn đề cán bộ quản lý phải ra lô học cạo mủ, thi đua với nhau. Đó cũng là tiền đề để có những cuộc thi tay nghề giỏi sau này vẫn thực hiện. Ông Năm Khoa nói rằng, làm cái gì cũng có thể nhân nhượng nhưng với khoa học kỹ thuật thì không thể nhân nhượng được.
Rất nhiều quyết định của ông Năm Khoa lúc bấy giờ không ít thì nhiều đều bị phản ứng từ đầu nhưng rốt cuộc khi đưa vào áp dụng đã mang lại hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng, sản lượng mủ cao su. Nhưng có những quyết định cũng khiến ông bao phen “bầm dập”. Còn nhớ những năm cuối thập niên 90 khi xây dựng nhà máy chế biến mủ, Tổng Công ty Cao su Việt Nam lúc đó buộc ông phải vay hàng triệu USD từ Ngân hàng Thế giới nhưng ông dứt khoát từ chối vì không chịu làm theo những yêu cầu của bên cho vay. Sau đó, qua những mối quan hệ quen biết, ông vay được 650.000 USD của một tổ chức ở Pháp về xây dựng Nhà máy chế biến mủ cao su Long Hòa - nhà máy đầu tiên của công ty. Lúc đó ông gặp rất nhiều khó khăn do kiểm toán và thuế làm căng khi biết ông tăng khấu hao lên nhằm thu hồi vốn nhanh để trả nợ. Sau khi giải thích đả thông đối với các cơ quan quản lý ông được tiếp tục thực hiện và chỉ 3 năm sau ông đã trả được cả vốn lẫn lãi. Với cách làm tương tự, ông tiếp tục vay thêm 670.000 USD xây dựng Nhà máy chế biến mủ Bến Súc và cũng chỉ mất 2 năm để trả hết nợ, lãi.
Năm 1997 sau khi tham quan tìm hiểu ở nước ngoài về, ông lại đưa ra một quyết định khiến dự luận, báo chí “đánh” tới tấp. Đó là quyết định nhập lò sấy từ Malaysia. Nhiều người nói sao không sử dụng máy trong nước mà nhập từ nước ngoài gây lãng phí? Ông Năm Khoa nhớ lại, hồi đó lò sấy KBR trên thị trường trong nước có năng suất 600kg/giờ, trong khi lò sấy nhập về có năng suất từ 2 - 2,5 tấn/giờ. KBR có mức tiêu thụ nhiên liệu khoảng 45 lít dầu/tấn thì máy nhập từ Malaysia chỉ tiêu tốn 27 lít/tấn, ít hơn nhiều so với máy KBR. Và rồi thực tế từ hiệu quả sản xuất đã thay ông trả lời tất cả.
Chế biến mủ cao su xuất khẩu tại Công ty TNHH MTV Dầu Tiếng
Có nhà máy, máy móc hiện đại rồi phải nâng chất lượng sản phẩm nhằm tăng thêm giá trị xuất khẩu là vấn đề khá nan giải và đau đầu đối với ông Năm Khoa và lãnh đạo công ty lúc bấy giờ. Trước đó, ở Việt Nam chỉ sản xuất mủ cốm, là hàng thường nên giá bán không cao. Ông lại đi tìm hiểu nhiều nơi và cuối cùng đã sản xuất được mủ CV, GP với giá bán tăng thêm hàng chục USD mỗi tấn.
Dấu ấn để lại
Khoảng những năm 1993-1994 khi nhiều người dân trên địa bàn huyện còn gặp nhiều khó khăn về đường sá đi lại, điện, nước... ông bàn với Ban giám đốc công ty thực hiện hàng loạt tuyến đường, kéo điện lưới về tận từng ấp của các xã, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại, sản xuất vận chuyển hàng hóa. Đặc biệt, không thể không nhắc đến hệ thống y tế, nhà trẻ mẫu giáo được xây dựng từ công ty đến tất cả các nông trường. Hiện nay toàn công ty có 11 trạm y tế cơ sở, 1 bệnh viện tại trung tâm công ty với quy mô 100 giường bệnh và đội ngũ trên 190 y, bác sĩ, điều dưỡng và nhân viên phục vụ đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh điều trị cho CBCN và nhân dân trên địa bàn. Công ty cũng đã duy trì hoạt động hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo. Hiện toàn công ty có 88 nhóm nhà trẻ - mẫu giáo với 190 cán bộ giáo viên, CNV đang nuôi dạy trên 2.000 cháu. Đây cũng là những công trình hạ tầng góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của huyện Dầu Tiếng. Ông Năm Khoa nhớ lại: “Có lúc Sở Giáo dục đã lên tiếng chuyển giao hệ thống các trường mầm non cho sở quản lý, nhưng tôi không đồng ý vì ở đây mang đặc thù riêng. Thứ nhất, tiền lương của giáo viên được công ty trả khá cao, khi chuyển đổi họ không có mức thu nhập tương xứng. Thứ hai, những truờng này chủ yếu là con em công nhân, họ phải gởi con từ 5 giờ sáng để đi làm, đến 7 giờ tối mới về. Nếu làm việc như các truờng khác thì không thể đáp ứng.
Những công nhân lập nghiệp có nơi ở ổn định như hôm nay, khó có thể quên được chủ trương cho vay xây nhà của Ban lãnh đạo công ty, mà trong đó ông là người đề xướng. Khi đó quỹ phúc lợi của công ty có một số tiền, ông bàn với mọi người gỡ khó cho những công nhân gặp khó khăn về nhà ở. Ông cho vay tiền không tính lãi, nhưng một khi đã vay là phải xây nhà chứ không được nhận tiền mặt. Công ty còn đứng ra mua vật liệu tại gốc rồi chở thẳng đến từng hộ cho những người vay mà không tính tiền chuyên chở. Với cách làm này, hàng ngàn căn nhà tạm bợ của công nhân đã được xây mới mỗi năm.
Chủ trương trồng cao su trên đất bạn Lào cũng là một trong những đề xuất nhiều ý nghĩa của ông. “Bình Dương và Champasak đã kết nghĩa nhưng phải có một công trình gì đấy thiết thực thể hiện mối quan hệ đó. Sau khi xin ý kiến của Tỉnh ủy, tôi bàn với lãnh đạo Công ty 3-2 quyết định trồng 6.500 ha cao su trên đất Lào...”, ông Năm Khoa nhớ lại.
Những quyết định sáng suốt, những đóng góp thiết thực và tâm huyết của ông Năm Khoa đã góp phần to lớn trong việc đưa công ty trở thành một trong những đơn vị dẫn đầu của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam. Và tin chắc rằng thương hiệu “Cao su Dầu Tiếng” sẽ mãi đứng vững trên thị trường trong nước và quốc tế.
Với công lao, thành tích đóng góp vào sự phát triển của công ty và ngành cao su, năm 2006 Chủ tịch nước đã phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới” cho ông Lê Văn Khoa do đạt thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động sáng tạo (1997-2005). Đây là vinh dự lớn lao đối với một người con của quê hương Dầu Tiếng anh hùng.
TRÍ DŨNG - QUANG TÁM